HÃY TIN CUỘC ĐỜI SẼ TỐT ĐẸP !
--------------------------
Việt Nam có thực tâm
hòa hợp và cả hòa giải dân tộc ?
Phạm Chí Dũng gửi RFA
2013-05-01
2013-05-01
.
Vẫn còn “tài nguyên nhân quyền” đặt lên bàn đàm
phán quốc tế, chủ đề hòa hợp và có thể cả hòa giải dân tộc lại đang được Hà Nội
nhắc đến. Chỉ có điều, bối cảnh hiện thời khác xa so với gần một thập niên
trước.
.
Biến đổi quan niệm
.
Dường như đã thấm thía ý nghĩa của mối quan hệ
“song phương” và có thể cả đa phương hóa, gần mười năm sau nghị quyết số 36 về
công tác người Việt Nam ở nước ngoài, giới chức lãnh đạo của quốc gia này mới hé
cửa về triển vọng “hòa hợp dân tộc”.
.
Cũng tràn ngập ý nghĩa và không kém ấn tượng,
bài phỏng vấn Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn do báo Thanh niên thực hiện
với tiêu đề “Hòa hợp tạo ra sức mạnh cho dân tộc” đúng vào ngày 30/4 – kỷ niệm năm thứ 38 của “Bên thắng cuộc”, đã phác họa những nội dung chưa
từng có tiền lệ kể từ năm 2004. 2004 – thời điểm mà nghị quyết 36 của Bộ chính
trị ra đời, cũng là một “thời kỳ quá độ” mà Việt Nam tích cực vận động để “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được tô điểm thêm một sắc thái
mới: thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
.
Vào thời kỳ quá độ trên, chủ đề hòa hợp hòa giải
dân tộc cũng đã được nêu ra, nhưng thể hiện một cách đầy chắt lọc chứ không phổ
cập đại chúng trên báo chí trong nước như những ngày qua. Độ lượng hơn trong ít nhất việc chọn lọc “đối
tượng”, hòa hợp dân tộc đang biến diễn trong bối cảnh Việt Nam nhiệt thành xúc
tiến cho một cuộc thương thuyết mới sau “phong trào” WTO: gia nhập Hiệp định đối
tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tất nhiên, kinh tế có thể đóng vai vế làm biến
đổi cả quan niệm chính trị.
.
“Cái nhìn hết sức tích cực”
.
Sau gần mười năm từ năm 2004, một quan chức có
trọng trách về ngoại giao và cũng là chủ nhiệm của Ủy ban nhà nước về người Việt
Nam ở nước ngoài – ông Nguyễn Thanh Sơn, đã lần đầu tiên dẫn ra một quan niệm
mới “Do hoàn cảnh lịch sử mà kiều bào ta vẫn còn một bộ phận mà ngày xưa chúng
ta vẫn gọi là “phản động”. Quan điểm của tôi là không nên gọi như
thế”.
.
Trong bài trả lời phỏng vấn báo Thanh niên, nhân
vật số hai của Bộ ngoại giao Việt Nam đã “giải mật” một nội dung mà vẫn thường
mang nặng dấu ấn cơ mật vào “ngày xưa”, khi ông tiết lộ việc thông qua Đại sứ
quán và Tổng lãnh sự quán Việt Nam ở Mỹ, vào tháng 10/2012 ông đã có những cuộc
tiếp xúc tại Washington, Houston, California, quận Cam với “các cá nhân, tổ chức
còn chống đối, có tư tưởng hận thù với đất nước” *, trong đó có những thủ lĩnh,
nhân vật “chống cộng khét tiếng’” như Nguyễn Ngọc Lập, Nguyễn Phương Hùng,
Nguyễn Thành Quang, Võ Đức Quang, Đức Nguyễn, Thôn Thất Chiếu, Đông Duy, Nguyễn
Á Độc Lập, Hoàng Duy Hùng…
Riêng đối với nhân vật Hoàng Duy Hùng, ông Sơn
khen ngợi: “Vấn đề mà chúng ta từng lo ngại là các thành phần chống cộng cực
đoan đã ngày càng giảm đi. Một trong những người cực đoan nhất như ông Al Hoàng
(Hoàng Duy Hùng) vừa qua cũng đã được về nước và ông ấy đã có những cái nhìn hết
sức tích cực như các anh (phóng viên) đã biết”.
Người được khen tặng – Hoàng Duy Hùng, một nghị
viên của Thành phố Houston đặc trách về châu Á – đã có chuyến về thăm Việt Nam
vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/2013 qua lời mời của Bộ ngoại giao Việt Nam và của
thành phố Đà Nẵng – đô thị được xem là “nơi đáng sống nhất Việt Nam” và đang có
mối quan hệ kết nghĩa với Houston. “Tôi e ngại rằng nhiều đảng phái quá sẽ không
xây dựng được đất nước, nên tôi cho rằng hệ thống lưỡng đảng ở Hoa Kỳ đem áp
dụng cho Việt Nam là tốt nhất, và đó cũng là sự “hợp nguyên”. Suy cho cùng, hệ
thống lưỡng đảng là tương đối ổn thỏa nhất để xây dựng và phát triển Việt Nam” –
ông Hoàng Duy Hùng đã nêu ra “cái nhìn hết sức tích cực” khi trả lời BBC tiếng
Việt cũng vào ngày 30/4/2013 – thời điểm mà Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh
Sơn hé cửa “hòa hợp dân tộc” trong trả lời phỏng vấn báo Thanh niên.
.
Nghị viên Houston Hoàng Duy Hùng còn đề nghị một
phương án hết sức táo bạo: nếu Đảng cộng sản Việt Nam thuận theo sự tiến bộ và
tách thành hai đảng, thí dụ Đảng cộng hòa (bảo thủ) và Đảng xã hội hay Đảng dân
chủ (cấp tiến), thì đó chính là đột phá của lịch sử để giải quyết nhiều bế tắc
trong nhiều năm qua ở ngay trong nội bộ Đảng cộng sản cũng như của chính những
người bất đồng chính kiến và ở hải ngoại. Lúc đó, những người bất đồng chính
kiến có thể tham gia một trong hai đảng mà không cảm thấy khó khăn. Khá bất ngờ là chính trường Việt Nam, với những
ẩn dụ chưa định hình, đang lần đầu tiên tạm chấp nhận sự hiện diện và cả phát
ngôn của một nhân vật “khét tiếng chống cộng”.
.
Việt Nam dân chủ cộng hòa?
.
Cũng khá bất ngờ đối với người dân trong nước và
còn đột ngột hơn với giới trí thức hải ngoại, tháng 4/2013 lại khởi đầu cho một
“đột phá lịch sử” nào đó giữa Nhà nước với thành phần trí thức “bất đồng” ở Việt
Nam, nhưng không được kích hoạt một cách trực tiếp, mà bằng vào sự hồi tưởng
lịch sử năm 1946: Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Quay về tên nước “Việt Nam dân chủ cộng hòa”
cũng là một trong những nội dung cải cách chính trị của nhóm “Kiến nghị
72”.
Điều đáng ngạc nhiên là trong bối cảnh chỉ mới
từ tháng 3/2013 trở về trước, khi việc sửa đổi Hiến pháp vẫn không chấp nhận các
ý kiến trái chiều, thì trong một buổi tọa đàm lấy ý kiến Hiến pháp tại TP.HCM
diễn ra sau đó không lâu, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã cho rằng “cần phải
tiếp thu ý kiến nhiều chiều”.
Ý kiến đề xuất của một số nhân sĩ và cả giới
chức mặt trận về việc đổi tên nước cũng vì thế được lưu tâm hơn. Trong số nhân
sĩ này, có cả những người bất đồng chính kiến và những người mà “ngày xưa” còn
bị cơ quan an ninh xem là “đối tượng chống đối”.
Nhưng chỉ mới đây thôi, có vẻ cách nhìn và thái
độ của các cơ quan “đặc vụ” đã trở nên dịu dàng hơn nhiều. “Tôi cũng có quan hệ
rất tốt với các cơ quan quốc phòng, công an và các anh ấy cũng rất ủng hộ tôi
khi có đột phá vào những chuyện vẫn bị coi là nhạy cảm” – Thứ trưởng Nguyễn
Thanh Sơn trần tình trong trả lời báo Thanh niên.
Ông Sơn cũng gián tiếp khơi gợi về một sự kiện
không kém ẩn ý trong thời gian qua: “Tại sao năm 1946 khi Bác (ông Hồ Chí Minh)
đi thăm Pháp trong bối cảnh đất nước thù trong, giặc ngoài mà Bác không chọn bác
Phạm Văn Đồng hay bác Võ Nguyên Giáp là quyền chủ tịch nước, mà lại ủy nhiệm cho
cụ Huỳnh Thúc Kháng vị trí đó? Trong những lúc đất nước lâm nguy, khó khăn thì
hơn bao giờ hết tinh thần đại đoàn kết dân tộc được thể hiện qua sức mạnh dân
tộc trong các thành phần dân tộc, các tầng lớp trong xã hội. Người được lựa chọn
không phải là người ở trong chính đảng mà Bác thành lập, mà là một chí sĩ yêu
nước có uy tín lớn, đủ khả năng lãnh đạo đất nước”.
.
Vào trung tuần tháng 4/2013, sau khi đề xuất đổi
tên nước được bất thường khởi xướng và có dấu hiệu lan rộng, một buổi lễ truy
tặng huân chương Sao vàng cho chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng đã được tổ chức
tại huyện ủy Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, với sự chủ trì của Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang. Thực ra, tình cảm tri ân lịch sử của ông Sang đã
được thể hiện qua bài viết “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” của ông vào tháng
8/2012, trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 6 đầy sôi động.
.
Hòa giải?
.
Hướng về lịch sử chiến tranh Nam – Bắc cũng đang
là tinh thần nổi trội sau gần mười năm mà nghị quyết 36 của Bộ chính trị vẫn bị
nhiều nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước xem là “chưa đi vào thực tiễn”. Một
trong những chủ trương có tính lịch sử như thế liên quan đến nghĩa trang quân
đội Việt Nam cộng hòa ở tỉnh Bình Dương.
“Hai quân đội từng đối địch nhau, để như vậy
càng tạo thêm sự xung đột sau này, cho nên chuyển thành nghĩa trang dân sự là
rất đúng” – Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn giải đáp một cách không quá thiên về
thói quen ngoại giao.
“Lần đầu tiên một quan chức Việt Nam bày tỏ
nghĩa cử tưởng nhớ đối với tử sĩ Việt Nam cộng hòa, những chiến binh của phía
thua cuộc” – báo chí phương Tây bình luận về sự hiện diện “đến thăm và thắp
hương” của Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn tại đài tưởng niệm
bằng đá đen mới được dựng lên trong nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũ ở tỉnh Bình
Dương, nơi chôn cất 16.000 binh lính Việt Nam cộng hòa đã tử trận.
Sự kiện đáng nhớ trên lại diễn ra vào tháng
3/2013, ngay trước khi xuất hiện một sự kiện khó quên khác: giáo sư Michael
Dukakis – cựu ứng viên tổng thống Mỹ năm 1988, hiện là Chủ tịch Diễn đàn toàn
cầu Boston – đã phát biểu đầy sôi nổi tại Học viện chính trị – hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh: “Các bạn là một dân tộc điển hình về hòa giải, hòa hợp sau
chiến tranh, nỗ lực xây dựng một thế giới tránh xung đột”.
Dù vẫn thận trọng và chỉ dùng từ “hòa hợp” mà
không có phụ ngữ “hòa giải”, nhưng lời lẽ trong nội dung trả lời phỏng vấn của
Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn lại như toát lên một hàm ý nào đó về cả
sự hòa giải dân tộc – điều chưa từng hiện diện một cách thực tâm và thực chất
trong gần bốn chục năm qua giữa Nhà nước Việt Nam với “các thế lực thù
địch”.
Cho tới giờ, người ta đã có thể giải thích vì
sao trong không khí nhang khói tại nghĩa trang quân đội Việt Nam cộng hòa vào
tháng 3/2013, lại có mặt một trong những đại diện của “thế lực thù địch ấy” –
ông Nguyễn Đạc Thành, nguyên thiếu tá quân lực Việt Nam cộng hòa, cựu tù cải tạo
và hiện là Chủ tịch Hội Vietnamese American Foundation, bên cạnh “Người thắng
cuộc” Nguyễn Thanh Sơn. Nếu kinh tế có thể làm biến đổi quan niệm chính
trị, thì quan niệm ấy cũng có thể khiến đổi khác những hành động về ý thức
hệ.
Đó cũng là lý do giải thích cho một hành động
rất mới mẻ là chính vào bối cảnh “rất nhạy cảm” như hiện nay, tờ báo Thanh niên
của Trung ương đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lại có đủ can đảm để nêu ra
một câu hỏi đặc biệt đối với Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn: “Bài học lịch sử ấy
(thời kỳ đầu xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa), theo ông, có thể áp
dụng thế này vào hiện tại để tập hợp những con người có thể có quan điểm, chính
kiến khác nhau vì mục tiêu phát triển của đất nước?”.
Rất có thể đây là lần đầu tiên từ rất nhiều năm
qua, một tờ báo “quốc doanh” lộ ra mối quan tâm với những người bất đồng chính
kiến mà không bị Ban tuyên giáo trung ương “tuýt còi”.
.
Tài nguyên nhân quyền!
.
Trong Việt Nam đương đại, chủ đề “Phát triển đất
nước” là một bài toán quá nhiều ẩn số với xuất phát điểm của quá nhiều nguyên
nhân, mâu thuẫn và xung đột thuộc về nội tại.
Chìm trong suy thoái và gần như cạn kiệt về sức
hồi sinh, nền kinh tế Việt Nam và những người điều hành nó đang phải bằng nhiều
cách tìm ra lối thoát.
Nếu Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn dường như đang
cố gắng thể hiện “gương mặt ôn hòa” với kỳ vọng có thể thu hút từ 10 đến 20 tỷ
USD kiều hối từ 4,5 triệu “kiều bào ta”, thì sau gần mười năm, nghị quyết số 36
của Bộ chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn rất xa mới đạt
được ý nghĩa trọn vẹn về hình thể và nhân cách của nó.
Cũng gần như cạn kiệt tài nguyên, ngoài dầu khí
ở khu vực biển Đông, Việt Nam đang tụt hậu quá xa so với Myanmar trong nhãn quan
lợi nhuận của giới tư bản quốc tế.
Trong bối cảnh đầy ám ảnh như thế, hiển nhiên
lời đánh đố về tính hấp dẫn mang tính cứu cánh của TPP như “Việt Nam sẽ là nước
được hưởng lợi nhiều nhất”, cũng như kết quả đàm phán gia nhập tổ chức này của
Việt Nam, vẫn là một cái gì đó không thể không liên đới với khuyến cáo mới đây
của tiến sỹ Jonathan London của Trường đại học tổng hợp Hồng Kông, trong một
cuộc hội thảo tại Trường đại học Phạm Văn Đồng (tỉnh Quảng Ngãi): “Việt Nam đang
đứng trước cơ hội lịch sử để chọn con đường cải cách, đẩy mạnh cải cách chính
trị để thu hút hậu thuẫn cho chủ quyền của mình ở biển Đông”.
Ứng với những động thái khá cấp tập “vừa tranh
thủ vừa đấu tranh” nảy ra trong các mối quan hệ Việt – Mỹ và Việt Nam – Liên
minh châu Âu, vào lần này hình như chủ quyền lại đồng nghĩa với quyền con
người.
Thường được mô tả như “một thị trường tiêu thụ
tiềm năng với hơn 80 triệu người”, Việt Nam cũng còn một thứ tài nguyên đặc
chủng để đặt lên bàn đàm phán quốc tế: tài nguyên nhân quyền.
.
Một lần nữa từ nhiều năm qua và sau cuộc đối
thoại nhân quyền Việt – Mỹ tái lập ở Hà Nội vào giữa tháng 4/2013, chủ đề hòa
hợp và có thể cả hòa giải dân tộc được Hà Nội nhắc đến.
Chỉ có điều, bối cảnh hiện thời đang khác xa so
với gần một thập niên trước.
. P.C.D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét