Thứ Ba, 07/05/2013 -
09:06 (Nguồn; Dân trí)
Liên Xô "chia lửa" với Việt Nam trong chiến tranh biên giới thế nào?
.
Ngày 16/2/1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô. Dọc tuyến biên giới Xô - Trung đã tập trung khoảng 1,5 triệu quân PLA, phía Liên Xô đã triển khai hơn 40 sư đoàn...
Đặng Tiểu Bình đượcTổng thống Mỹ Jimmy Carter ủng hộ (31-01-1979) - ảnh không có trong bài
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất
nước năm 1975, do những vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa các nước trong khối
XHCN, Việt Nam khẳng định đường lối chính trị độc lập, tự chủ, không phụ thuộc
đã duy trì mối quan hệ chính trị bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can
thiệp vào nội bộ của nhau với các nước trong khối XHCN.
| Tháng 12/1979. Đô đốc Hạm đội Liên bang Xô Viết S.G.Gorshkov, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô đến Hà Nội để đặt quan hệ công tác với Bộ Quốc phòng CHXHCN Việt Nam. Trong ảnh là Tư lệnh Hải quân Việt Nam, Thiếu tướng Giáp Văn Cương đón đoàn. |
Trong bầu không khí đối ngoại chính trị căng
thẳng sau chiến tranh khốc liệt, Việt Nam nhanh chóng xác định được thực chất
những vấn đề phức tạp đang nảy sinh trong quan hệ quốc tế và xác định rõ Liên
bang Xô Viết là người bạn chung thủy và đáng tin cậy nhất trong giai đoạn
này.
.
.
Nhưng Việt Nam vẫn duy trì mối quan hệ bình
đẳng về ngoại giao với hai nước lớn trong khối XHCN đến trước năm 1979. Chiến
lược chi phối toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương và những âm mưu đầy tham
vọng của nước láng giềng nhằm thực hiện sách lược đã nêu buộc nhà nước Việt Nam
phải tiến hành những bước đi vững chắc nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, một trong những bước đi kiên quyết đó là gắn kết với Liên Xô trong
một mối quan hệ đoàn kết hữu nghị trên tầm chiến lược.
.
.
Vào rạng sáng ngày 17.2.1979, quân đội nước
láng giềng sau hàng loạt những hành động khiêu khích đã tiến hành cuộc chiến
tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Trước khi nổ ra cuộc chiến
một thời gian, ngày 29.6.1978 Việt Nam đã gia nhập CMEA. Ngày 3.11.1978 tại
Moscow, đại diện nhà nước Liên bang Xô Viết và Việt Nam đã ký kết Hiệp ước hữu
nghị Xô-Việt. Ngoài các điều kiện tiêu chuẩn của hiệp ước về hợp tác thương mại
và văn hóa, hiệp ước có được những vấn đề quan trọng về quốc phòng như một hiệp
ước về "phòng thủ chung" có nghĩa là "tham khảo ý kiến chung và hành động hiệu
quả để đảm bảo an ninh quốc phòng của cả hai nước."
| Cảng Cam Ranh tháng 3-1979, các thành viên tàu BPK "Vasily Chapaev" và sỹ quan chiến sỹ vùng 4 hải quân Việt Nam chụp ảnh lưu niệm. |
Nhưng dấu hiệu của sự gia tăng của hợp tác
Xô-Việt trở thành hiện thực vào mùa hè năm 1978, trong bối cảnh mâu thuẫn ngày
càng tăng giữa Việt Nam với nước láng giềng. Theo các nguồn tin chính thức của
Hoa Kỳ vào tháng 8.1978, Việt Nam có 4.000 cố vấn và chuyên gia Liên Xô và đến
giữa năm 1979 con số đã tăng lên đến 5.000-8.000. Tháng 9.1978, Liên Xô bắt đầu
thực hiện việc cung cấp vũ khí mới (máy bay, tên lửa phòng không, xe tăng và vũ
khí, đạn dược, cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh) cho Việt Nam bằng đường hàng
không và đường biển.
.
.
Cũng vào thời điểm đó, quan hệ Xô – Trung trở
nên vô cùng căng thẳng và có rất nhiều trở ngại lớn. Ngày 1.11.1977, cơ quan
ngôn luận của đảng cộng sản Trung quốc, tờ Nhân dân nhật báo trong một bài xã
luận đã gọi Liên Xô như một kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc, đồng thời coi
Mỹ như là một đồng minh. Ngày 26.4.1978. Bộ Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu bổ
sung thêm vào điều kiện công nhận sự tồn tại các vấn đề tranh chấp khu vực trên
biên giới Trung-Xô. Trung Quốc đòi quân đội Liên Xô phải hoàn toàn triệt thoái
khỏi Mông Cổ, đồng thời giảm số lượng các lực lượng vũ trang trên suốt tuyến
biên giới Trung-Xô.
.
.
Đáp trả lại yêu cầu ngang ngược của Bắc Kinh,
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev, vào đầu tháng 4.1978 khi đi
thăm Siberia và Hạm đội Thái Bình Dương, đã tuyên bố rằng sẽ triển khai trên
tuyến biên giới các hệ thống vũ khí mới, ngoài những hệ thống vũ khí trang bị
hiện đại đã có sẵn trên biên giới Trung-Xô. Các loại vũ khí mới này, theo tuyên
bố của Leonid Brezhnev có khả năng đảm bảo an ninh biên giới cho Liên bang Xô
Viết và các nước đồng minh, chống lại mọi âm mưu xâm lược của thế lực nước
ngoài.
| Ngay trong tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh. Ít lâu sau, các máy bay của Hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh xuống Cam Ranh. Trong ảnh là thủy thủ đoàn tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Victor III Rroject 671RTM biên chế trong Sư đoàn tàu ngầm số 38 (Liên đội tàu chiến số 17) tại Cam Ranh. |
Thế lực nào thì Brezhnev không nêu rõ, nhưng
tất cả đều đã rõ ràng. Bổ sung thêm vào lời tuyên bố của Tổng bí thư Đảng cộng
sản Liên Xô, ngày 12.4.1978. Ulan Bator cũng công khai bác bỏ yêu cầu của Trung
Quốc, tuyên bố rằng lực lượng quân đội Liên Xô được tăng cường và triển khai dọc
biên giới Mông Cổ - Trung Quốc là theo yêu cầu của Mông Cổ nhằm đáp trả việc
tăng cường lực lượng của PLA trên biên giới. Tình hình ngày càng trở lên phức
tạp. Tháng 5.1979 trên biên giới Xô Trung đã xảy ra một vụ xung đột nghiêm trọng
lớn tính từ năm 1969, xung đột đã lôi kéo sự tham gia của cả máy bay trực thăng
chiến đấu. Ngược lại, Liên bang Xô Viết cũng tăng cường áp lực lên Trung Quốc
với mục đích đạt được sự kéo dài Hiệp định Xô – Trung có giới hạn 30 năm về quan
hệ Liên minh, Hợp tác hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau, được ký vào ngày 14.2.1950.
.
.
15.2.1979 là ngày đầu tiên sau 30 năm Hiệp ước
Xô - Trung về Liên minh, hợp tác hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau hết hiệu lực.
Trung Quốc chính thức bước ra khỏi sự ràng buộc của Hiệp định này. Ngày
16.2.1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố với Moscow về khả năng sẵn sàng tiến hành một
cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên bang Xô Viết. Dọc tuyến biên giới Xô -
Trung đã tập trung khoảng 1,5 triệu quân PLA trên tổng số quân thường trực chiến
đấu là 3,6 triệu người, trên tuyến biên giới quân đội Liên Xô đã triển khai hơn
40 sư đoàn.
.
.
Sáng sớm ngày 17.2.1979, các cuộc tấn công đã
đồng loạt diễn ra tại 26 điểm trên toàn tuyến biên giới phía Bắc dài 1460 km của
Việt Nam. Ngày 19.2 các phương tiện thông tin công bố bản "Tuyên bố của Chính
phủ Liên Xô" thứ nhất. Trong có đoạn viết: “Nhân dân Việt Nam anh hùng lại một
lần nữa trở thành nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược mới, nhưng quân và
dân Việt Nam có đủ sức mạnh và ý chí để đánh bại kẻ thù xâm lược, hơn nữa, nhân
dân Việt Nam có những người bạn thủy chung và là chỗ dựa vững chắc cho cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện đầy đủ những điều
khoản cam kết được ghi trong Hiệp ước hợp tác hữu nghị toàn diện và giúp đỡ lẫn
nhau giữa Liên Xô và Việt Nam. Liên bang Xô Viết kiên quyết yêu cầu chấm dứt
ngay cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa chống nhân dân Việt Nam và lập tức rút
quân khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
.
.
Trước thực trạng nhân dân Việt Nam một lần nữa
phải chịu đựng những tổn thất, mất mát và sự tàn khốc của chiến tranh xâm lược,
Liên Xô hoàn toàn không có ý định bỏ qua những trách nhiệm đã được cam kết. Tại
Việt Nam, các chuyên gia và cố vấn lập tức tham gia vào những hoạt động quân sự
cùng với những người đồng chí Việt Nam. Từ phía Liên Xô, các lực lượng cố vấn và
chuyên gia quân sự được tăng cường. Một cầu hàng không được thiết lập từ Liên Xô
đến Việt Nam. Ngày 19.2.1979, một đội chuyên gia kỹ chiến thuật binh chủng và cố
vấn quân sự của tất cả các quân binh chủng đứng đầu là đại tướng
G.Obaturovym.
.
.
Đội chuyên gia và cố vấn có nhiệm vụ hỗ trợ,
giúp đỡ và cố vấn cho các cán bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tình huống
phức tạp của chiến trường. Nhóm chuyên gia của Trung tướng M.Vorobevy nhận nhiệm
vụ cố vấn cho bộ tư lệnh lực lượng Phòng không – Không quân. Đại tướng
G.Obaturovym làm cố vấn cho Tổng tham mưu trưởng lực lượng vũ trang Việt Nam Lê
Trọng Tấn và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đại tướng Văn Tiến Dũng đã tiến hành đồng
thời nghiên cứu chi tiết tình hình. Sau chuyến đi khẩn cấp thị sát chiến trường.
Bộ tổng tham mưu đã đề xuất lãnh đạo cho phép điều động một quân đoàn từ
Campuchia về hướng Lạng Sơn, điều động một tiểu đoàn pháo phản lực BM-21, vũ khí
vừa được đưa sang từ Liên Xô. Đồng thời tổ chức và huy động lại các đơn vị và
các phân đội, biên chế lại một sư đoàn vừa rút ra khỏi vòng vây, tiến hành các
hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.
.
.
Trong chiến thắng của quân và dân Việt Nam năm
1979, có sự đóng góp không nhỏ của các cố vấn, chuyên gia kỹ thuật quân binh
chủng và một bộ phận các cán bộ chiến sĩ quân đội Liên Xô. Các phi công của phi
đoàn máy bay vận tải An- 12 đã tiến hành không vận toàn bộ một quân đoàn từ
Campuchia về Lạng Sơn. Hoạt động đặc biệt năng động và sáng tạo là lực lượng
chuyên gia thông tin liên lạc của đoàn cố vấn (biên chế có 120 người từ năm 1978
và 68 người được đưa sang ngay khi cuộc xung đột nổ ra), một bộ phận thông tin
liên lạc đi cùng với các cố vấn chiến trường, thực hiện nhiệm vụ ngay trong vùng
chiến sự. Tháng 3/1979, đoàn cố vấn quân sự Liên Xô chịu một tổn thất không nhỏ,
chiếc máy bay của hàng không Việt Nam An-24 khi hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng đã
gặp phải sự cố, 6 phi công – huấn luyện viên và thiếu tướng không quân Malyh hy
sinh.
.
.
Liên Xô đồng thời cũng tiến hành những hoạt
động nhằm chấm dứt chiến tranh tại Liên Hiệp Quốc, đại diện chính thức của Liên
bang Xô Viết đưa ra yêu cầu đòi xét xử kẻ xâm lược. Ngày 22.2/1979, Tùy viên
quân sự Liên Xô tại Việt Nam cảnh cáo: “Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện những
điều khoản đã ký kết Trong Hiệp định hợp tác, đoàn kết hữu nghị và tương trợ lẫn
nhau (trong cả lĩnh vực quân sự) đã được ký với Việt Nam. Nhưng thời điểm đó,
xung đột vẫn có thể giới hạn được, Liên Xô cũng không muốn có một cuộc chiến
tranh lớn.
Phía phát động chiến tranh xâm lược cũng được
cảnh báo trước một điều đã rõ ràng, nếu quân đội của họ không rút khỏi Việt Nam,
họ sẽ phải chiến đấu trên hai mặt trận. Tờ thời báo “Times” vào tháng 3.1979 đã
viết: “Cho đến khi quân đội Việt Nam vẫn giữ vững mặt trận, Liên Xô tiến hành
cuộc chiến tranh trên mặt trận tuyên truyền. Nguy hiểm nằm ở chỗ, nếu nước láng
giềng tiếp tục chiến tranh, tấn công Hà Nội và Hải Phòng, hoặc duy trì quân đội
của mình trên vùng đất chiếm được. Liên Xô, để thể hiện sự kiên quyết và sức
mạnh trước toàn thế giới, giữ lời cam kết với đồng minh, sẽ tham gia giải quyết
xung đột.
.
.
Xe tăng Liên Xô giúp ta (trên) và tù binh Trung Quốc (dưới)
(ảnh không có trong bài)
Trong trường hợp này, những hành động quân sự nào Liên Xô sẽ thực hiện trong thời điểm ban đầu? Các chuyên gia quân sự cho rằng, có quá nhiều sự lựa chọn hiệu quả. Liên Xô có thể tiếp tục tăng cường và tăng cường hơn nữa viện trợ quân sự cho Việt Nam, tăng cường hơn nữa cố vấn và các chuyên gia quân sự hoặc trực tiếp tiến hành các hành động vũ trang. Viễn cảnh đáng lo ngại nhất là những hành động quân sự mà Liên Xô có thể triển khai trên chiều dài 4.500 km đường biên giới Xô - Trung, nơi có 44 sư đoàn sẵn sàng chiến đấu đang đóng quân. Quân đội Liên Xô có thể xuất hiện trên vùng đồng bằng tuyết phủ của Tân Cương, có khả năng tấn công vào Mãn Châu - trung tâm công nghiệp nặng của Trung Quốc. Như một mục tiêu xa hơn cho "ngày tận thế" theo cách gọi của các chuyên gia là mục tiêu các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc ở vùng hồ muối Lop Nor (mục tiêu này dường như thích hợp hơn cả trong sự đánh giá của quân đội Liên Xô)" .
.
Bản tuyên bố của Liên bang Xô Viết lập tức gắn
liền cùng với hành động biểu dương sức mạnh. Các đơn vị tên lửa chiến thuật, các
sư đoàn đang đóng quân dọc biên giới Xô – Trung đều được chuyển trạng thái sẵn
sàng chiến đấu số 1. Tập đoàn quân có trong biên chế 250.000 quân nhân với sự
yểm trợ của không quân chiến thuật bắt đầu tập trung triển khai lực lượng dọc
các tuyến biên giới. Những ý đồ tác chiến thật sự nghiêm túc được ông Eugene,
lúc đó là đại đội trưởng đại đội 8 Trung đoàn lính thủy đánh bộ số 390 miêu tả
lại: Vào tháng 2-3.1979, đã triển khai và biên chế trung đoàn 390 Lính thủy đánh
bộ thuộc biên chế sư đoàn 55 Lính thủy đánh bộ trong trạng thái có chiến tranh,
gắn liền với sự kiện tấn công Việt Nam.
.
.
Sư đoàn đã thực hiện nhiệm vụ diễn tập chiến
thuật trên biên giới với Trung Quốc trong đó có nội dung đổ bộ đường biển, tiến
hành các cuộc diễn tập cấp tiểu đoàn có sử dụng đạn thật. Đối với Trung Quốc,
điều đó hoàn toàn không bất ngờ, thực tế, người Trung Quốc không hề muốn thử
nghiệm tính nghiêm túc của sự việc đang diễn ra và những ý đồ tác chiến của quân
đội Liên Xô. Tránh đối đầu, Trung Quốc đã tự cho rằng, mục đích cuộc chiến tranh
đã đạt được. Ngày 5.3.1979, Bắc Kinh tuyên bố rút quân hoàn toàn.
.
.
Rất nhiều ý kiến, khi đánh giá cuộc chiến tranh
biên giới đã khẳng định, PLA trong lĩnh vực tác chiến trên thực tế chiến trường
đã phơi bày những điểm yếu của mình, đồng thời cũng nói nhiều về chiến thắng của
Trung Quốc trên mặt trận ngoại giao đối với Liên Xô. Không ít ý kiến chỉ trích
dường như Liên Xô đã không giúp đỡ được đồng minh của mình, CCCP trên thực tế
chỉ là “chú gấu trắng bằng giấy”, những suy diễn này chủ yếu dựa trên cơ sở thực
tế, tại sao Liên Xô không tấn công vào biên giới của Trung Quốc, nhưng rõ ràng
những suy luận đó thuần túy mang tính cực đoan.
.
.
Trên thực tế, một phần
nhờ lập trường kiên quyết và cứng rắn của Liên Xô cùng với ý chí kiên cường,
lòng dũng cảm và năng lực chiến đấu mạnh mẽ của quân đội và nhân dân Việt Nam đã
chặn đứng âm mưu tiến hành cuộc xung đột biên giới kéo dài, buộc kẻ địch phải
rút quân mà không đạt được những mục đích đề ra. Quân đội Việt Nam tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng một đất nước
Campuchia dân chủ. Mục đích xóa bỏ những vùng đất thuộc Liên bang Xô Viết trên
tuyến biên giới Trung – Xô và khẳng định vị thế của Trung Quốc ở châu Á không
thành công. Ngoài ra, Việt Nam đã triển khai hàng loạt những hoạt động ngoại
giao trên trường thế giới nhằm phá thế bao vây cô lập và đã giành được sự ủng hộ
nhất định. Liên bang Xô Viết, từ cuộc phiên lưu chiến tranh biên giới của Trung
Quốc đã mở rộng sự hiển diện quân sự của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, xây dựng các căn cứ quân sự và tăng cường viện trợ cho các đồng minh của
mình.
.
.
(Còn tiếp)
Kỳ sau: Hải quân Liên Xô và gọng
kìm Biển Đông
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong/Lịch sử Hải quân Liên
Xô
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét