BỐN PHƯƠNG TỐT BỤNG ĐỀU CHƠI
Nửa vòng Trái Đất dù xa
Ta quý bạn, bạn quý ta tốt rồi !
Thật lòng chơi, bắt tay thôi
Còn chờ chi nữa, để rồi tiếc sau
Gần mà chèn ép hiếp nhau
Thì “đồng chí” cũng nên chào sớm
đi
Dùng dằng nuối tiếc làm chi
Lợi đâu chẳng thấy, chung quy
thiệt mình !
-*-
Ngoại trưởng Hoa Kỳ ca ngợi nỗ lực hòa giải của VN
- Chào đón Chủ tịch Trương Tấn Sang tới thăm Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Ngoại trưởng John Kerry đã nói về những nỗ lực nhân đạo của Việt Nam khi giúp Hoa Kỳ tìm kiếm quân nhân mất tích.VietNamNettrích giới thiệu phát biểu của ông Kerry trưa 24/7 (theo giờ Hoa Kỳ):
.
Thật
vui mừng vì những gì mà rất nhiều người trong chúng ta đã làm trong
suốt 20 năm qua trong việc xây dựng quan hệ hai nước và để ngày nay nó
trở thành mối quan hệ đối tác rất hiệu quả và quan trọng. Khi lần đầu
tiên tôi trở lại Việt Nam trong vai trò dân sự năm 1991, tôi có thể cảm
nhận sự năng động đáng kinh ngạc của người Việt Nam, chưa được khám phá,
một cảm nhận về tinh thần sẵn sàng tham gia hội nhập với thế giới, và
thế giới cũng rất sẵn sàng hội nhập với Việt Nam.
Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều nhớ rằng,
việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, thực sự theo nhiều cách là
không dễ dàng. Có rất nhiều người trong khán phòng nơi đây đã tham dự
rất lớn trong suốt các năm qua đóng góp vào việc xây dựng mối quan hệ
này. Tôi thấy thượng nghị sĩ Bob Kerrey và Chuck Robb, cựu thượng nghị
sĩ; Tom Vallely, đóng góp nhiều vào chương trình Fulbright; nguyên
thượng nghị sĩ Richard Lugar, và rất nhiều người khác. Tất cả đều nỗ lực
xây dựng mối quan hệ này. Và sự thật là họ sẽ nhớ đó là quá trình khó
khăn, đòi hỏi rất nhiều nỗ lực, lòng dũng cảm.
Và
chúng ta đều biết khi đó, chúng ta khó có thể đạt được tiến bộ nếu
không có nỗ lực giải quyết về vấn đề tù binh Mỹ ở Đông Nam Á. Trong khi cả hai bên nỗ lực giải quyết vấn đề thì cũng vấp
phải sự phản đối của nhiều người ở cả hai nước. Đó là lý do vì sao, tôi
luôn biết ơn các nhà lãnh đạo Việt Nam mà tôi từng làm việc trong cả một
thập niên, những người đã xây dựng mối quan hệ đối tác đặc biệt để giúp
chúng ta ngày nay có thể ở nơi đây thế này.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry
Họ
đã giúp chúng tôi tìm kiếm hàng nghìn người con trai kể cả khi phần lớn
số ấy mất tích. Họ tình nguyện đào xới những cánh đồng lúa của mình để
giúp chúng tôi cố gắng trả lời các câu hỏi. Họ cho chúng tôi vào nhà của
họ, cho chúng tôi tới những di tích lịch sử. Họ cho chúng tôi tới thăm
các nhà tù mà không cần báo trước, phỏng vấn tù nhân. Và họ thực sự để
cho trực thăng bay ở các thôn làng, để hỏi người dân, trả lời các
câu hỏi chưa được trả lời trong nhiều năm. Họ hướng dẫn chúng tôi đi qua
những gì mà nghĩa đen đúng là các bãi mìn.
Tình hữu nghị mà chúng tôi đã tạo dựng, công việc mà chúng
tôi đã làm với nhau để giải quyết các vấn đề tồn đọng đã dẫn tới đỉnh
cao bình thường hoá quan hệ vào ngày 11/7/1995. Chỉ ít tuần sau đó,
Ngoại trưởng Warren Christopher đã tới Hà Nội trong một sứ mệnh hoà
bình. Ông trò chuyện với thanh niên Việt Nam về tương lai, ông dẫn một
câu khắc tại Văn Miếu: “Heaven has ushered in an era of renewal” (Thiên khởi Trung hưng, tức Trời mở hội Trung hưng - ND).
Những
lời nói ấy có giá trị với cả chúng tôi ngày nay. Chủ đề đổi mới nằm ở
linh hồn tình hữu nghị của chúng ta. Người Việt Nam đã học được từ chính
lịch sử của họ rằng, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có tình bạn được
gây dựng.
Ngày nay, khi người Hoa Kỳ nghe
thấy từ Việt Nam, họ có thể nghĩ đó là một quốc gia, chứ không phải một
cuộc chiến. Và đó là thành tựu chung của chúng ta. Trong 18 năm qua,
chọn lựa sáng suốt bình thường hoá đã minh chứng đầy đủ.
Việt
Nam đã trỗi dậy là một trong những câu chuyện thành công nhất của châu
Á. Nhờ hiệp định thương mại song phương bước ngoặt năm 2001, thương mại
hai chiều từ năm 1995 trở lại đây đã tăng hơn 50 lần. Bình quân theo đầu
người, thu nhập tại Việt Nam tăng gần 500%. Cùng với Việt Nam và các
nước khác trong khu vực, ngày nay, chúng ta đang làm việc để ký kết hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương lịch sử, một thoả thuận thương mại
đỉnh cao của thế kỷ 21 sẽ thúc đẩy hội nhập kinh tế, thịnh vượng và đem
lại cơ hội cho người dân ở mọi nước trong khu vực.
Khi đã tự
chuyển đổi, Việt Nam hiện đang có một vai trò ngày càng lớn trong các
vấn đề của khu vực và toàn cầu. Chúng tôi hoan nghênh tuyên bố của Việt
Nam rằng họ muốn tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp
quốc vào năm 2014 và chúng ta hiện phối hợp cùng nhau để giúp đỡ họ
chuẩn bị cho các sứ mệnh triển khai đầu tiên. Chúng ta đang hợp tác để
củng cố an ninh đường biển và nâng cao sự hỗ trợ về con người cũng như
những khả năng khắc phục thảm họa.
Chúng
tôi đang tập trung các chương trình hỗ trợ của mình vào sự thích nghi,
năng lượng sạch và sự phát triển bền vững nhằm giúp giải quyết tình
trạng dễ bị tổn thương của Việt Nam trước sự biến đổi khí hậu và mới gần
đây, khi gặp gỡ ở Brunei tại hội nghị APEC, chúng ta đã thảo luận về
Sáng kiến hạ nguồn sông Mekong và các hoạt động tuyệt vời khác mà chúng
ta đang tham gia.
Chúng ta đang hợp tác trong lĩnh vực giáo dục
và đó là một cầu nối vô cùng quan trọng nữa trong mối quan hệ giữa hai
nước. Việt Nam là một xã hội trẻ phi thường với gần 21 triệu người dưới
độ tuổi 15... Tôi từ lâu đã là một người ủng hộ chương trình mà tôi đã
đề cập tới từ đầu, Chương trình giảng dạy Kinh tế Fulbright ở TP. HCM và
sự thành công của nó đã chứng minh rằng các cơ sở cao học độc lập do
Hoa Kỳ quản lý có thể hưng thịnh ở Việt Nam.
Khi
chúng ta hướng về tương lai của các mối quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam,
chúng ta nên nhớ rằng sự bình thường hóa có thể không đạt được nếu không
có sự đối thoại chân thành, không có sự thẳng thắn giữa Washington và
Hà Nội, ngay cả đối với những vấn đề nhạy cảm như quyền con người, và
tôi cam kết sẽ xây dựng dạng quan hệ hợp tác thẳng thắn và có tính xây
dựng thiết yếu này đối với cả hai nước chúng ta.
Nhìn lại quá
trình bình thường hóa quan hệ, tôi ấn tượng bởi việc biết bao lần những
người tận tâm với quá trình này phải đưa ra sự lựa chọn khó khăn, nhưng
đúng đắn. Quá trình này bắt đầu với George Bush - người mà cùng với
Brent Scowcroft, đã có những quyết định đầy dũng cảm để thúc đẩy tiến
trình tiếp tục tiến về phía trước và dỡ bỏ lệnh cấm vận, và cấm vận đã
kết thúc dưới thời Tổng thống Clinton, người không chỉ có những động
thái tiến tới bình thường hóa mà còn là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên tới
Việt Nam vào năm 2000 - mà tôi có vinh dự được tháp tùng.
.
.
45 năm
đã trước, hàng trăm nghìn người Hoa Kỳ chiến đấu ở các cánh đồng và con
sông của Việt Nam. Ngày nay, hàng trăm nghìn người Hoa Kỳ đã tới những
địa danh lịch sử và các khu chợ. Chúng ta đã tiến một quãng xa. Hãy để
tôi khẳng định rằng, thưa ông Chủ tịch, chúng tôi sẽ tiếp tục phát triển
quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam trong những năm tới. Tôi đã đọc tiểu sử của
ông Chủ tịch trước khi đón chào ông tới Hoa Kỳ và tới Bộ Ngoại giao. Và
tôi biết rằng năm 1966, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng năm
1966, tôi gia nhập hải quân Hoa Kỳ. Năm 1969, ông thành lãnh đạo lực
lượng du kích ở một quận ở Sài Gòn và bên ngoài Sài Gòn, năm 1969 tôi
cũng tham chiến ở châu thổ sông Mekong. Tới năm 1984, ông đảm nhận những
trọng trách lớn ở Việt Nam, cuối cùng thành Chủ tịch TP. HCM, năm 1984,
tôi được bầu làm thượng nghị sĩ và không đảm nhận trọng trách lớn nào,
nhưng (cười), tôi luôn cố gắng được đề bạt từ lúc đó.
Có một sự
tương đồng, một sự tương đồng thú vị, và lúc này, ở đây, ông Chủ tịch
thành phố giờ là Chủ tịch nước Việt Nam, còn tôi có vinh dự được phục vụ
Tổng thống Obama với khả năng của mình. Vì vậy, chúng ta có cơ hội xây
dựng chặng đường này từ quá khứ của mình và với tinh thần đó cho phép
tôi nâng ly chúc mừng sức khỏe ngài Chủ tịch, chúc mừng quan hệ giữa
nhân dân hai nước, chúc mừng cam kết đổi mới là trung tâm mối quan hệ
của chúng ta, chúc mừng Việt Nam từ xung đột thành bạn bè.
. PV - Ảnh: Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét